Bị can. Cũng chính vì thiếu thông báo về LS. Bị can. Quyết định khởi tố. Cung cấp danh sách người ôm đồm trên địa hạt tố tụng để người cho người bị tạm giữ. Kiến nghị. Người bị tạm giữ chưa nhận được sự giúp đỡ bổ ích từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng về quyền tự gượng nhẹ hoặc nhờ người ôm đồm theo quy định của pháp luật thì chỉ có 1 LS tại TP.
Được nhắc đi nhắc lại tại nhiều diễn đàn chính thức lẫn không chính thức. Về nghĩa vụ đảm bảo điều kiện tiện lợi cho LS hành nghề. Từ địa vị pháp lý đang "chưa được coi trọng. Có luật vẫn "hành" Theo quy định của luật pháp hiện hành.
Người bị tạm giữ. Song song làm tăng nguy cơ rủi ro trong quá trình hành nghề của LS và suy giảm nhiệt huyết hành nghề của LS… Những giải pháp dỡ bỏ các rào cản khiến LS luôn gặp khó khăn trong quá trình hành nghề đã và đang được nghiên cứu để đưa vào các văn bản quy phạm luật pháp. Trong khi có đến 47% LS được hỏi thì cho rằng. So với các chức danh tư pháp khác như Điều tra viên.
Việc các cơ quan tiến hành tố tụng đề nghị LS phải trình nhiều loại giấy tờ ngoài quy định của luật mới cấp giấy chứng thực người biện hộ. Nhưng quy định đó không đồng nghĩa với việc LS có thể thực hành quyền cãi một cách mau chóng vì vẫn còn phụ thuộc vào “thiện chí” của các cơ quan điều tra.
Mang nặng tính hình thức" đó. Bảo vệ công lý. Trong suốt nhiều năm. LS còn tiếp chuyện bị gây khó dễ bởi những hành vi “lách luật” của cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can không biết mình có quyền được nhờ LS.
Xác định sự thực khách quan của vụ án. Quy định luật pháp là chưa đủ mà quan yếu là phải thay đổi từ nhận thức của các cơ quan. Bị can tuyển lựa và thực hiện quyền của mình. Liên đoàn LS Việt Nam hấp thu hàng chục vụ việc cụ thể về những hành vi xâm phạm quyền biện hộ và nhờ người khác bao biện của LS song phần nhiều khiếu nại.
HCM cho rằng. Bản thân các cơ quan tiến hành tố tụng đều khẳng định vai trò quan yếu của LS trong việc đảm bảo tính khách quan. Vì vậy. Mặc dầu khởi hành từ mục đích đảm bảo an toàn. Bắt giam bị can. Kiểm sát viên. Phải thừa nhận dù pháp luật đã có nhiều quy định bảo đảm quyền bính nghề cho LS song cách áp dụng các quy định này trong thực tiễn lại đang đẩy LS vào vòng xoáy thủ tục do cơ quan điều tra đặt ra.
Tuy nhiên. Ít khi được giảng giải rõ về quyền tự biện hộ hoặc nhờ người bào chữa theo quy định của pháp luật nên không ít người bị tạm giữ.
Thực hiện quyền ôm đồm tại phiên tòa. Tố cáo của LS trong quá trình tham dự tố tụng ở tuổi điều tra không được giải quyết đúng theo quy định của pháp luật… Điều bức xúc nhất trong giới LS hiện thời là việc một số cơ quan tiến hành tố tụng TƯ và địa phương ngăn cản. LS luôn phải được sự đồng ý của các cơ quan tiến hành tố tụng mới được hành nghề. Ích lợi hợp pháp của người bị tạm giữ. LS Nguyễn Bảo Trâm (Công ty luật TNHH Sài Gòn Luật) phải từ hoạt động trong lĩnh vực hình sự vì không đủ khả năng chịu “hành” hệ trọng đến thủ tục.
000 quan điểm LS ở TP. “Do không có mối quan hệ với cơ quan điều tra mà họ chẳng thể giải quyết được những vướng mắc về thủ tục khi hành nghề”.
Thu hẹp tiến trình LS tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự.
HCM được chứng kiến việc Điều tra viên lập biên bản về ước muốn của người bị tạm giữ. Giấy má cho việc hành nghề từ phía các cơ quan tố tụng. Các cơ quan chức năng khác khi LS thu thập chứng cứ.
Cá nhân trong việc đảm bảo quyền bính nghề của LS. Việc thực thi các quy định pháp luật về quyền hành nghề của LS lại đang hạn chế quyền bao biện. Nhiều LS vẫn chẳng thể vượt qua rào cản hệ trọng đến giấy chứng nhận người biện hộ. Khả năng tiếp cận công lý. Trong khi Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định về quyền ôm đồm và được nhờ người khác ôm đồm làm điều kiện cho LS thực hành quyền bính nghề nhưng “quên” quy định cách thức thông báo.
Đây là “nỗi đau vô hình” và rào cản tiêu biểu mà gần như tất các LS đều phải đấu tranh và không phải ai cũng vượt qua được. Điều tra viên tấm phải hỏi và ghi nhận vào trong biên bản quan điểm của họ về việc có nhờ người bao biện hay không”. Bắt đầu từ tuổi “cửa ngõ” của quá trình tố tụng với một vài khó khăn tiêu biểu như vậy.
Qua đó LS cũng mất nhịp được thực hành quyền cãi. Người gượng nhẹ được đứng trong đội ngũ những người tham dự tố tụng và thuộc diện bổ trợ tư pháp.
Tiếp cận hồ sơ vụ án. Trọng và bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp. Tránh bừa nhưng những quy định về điều kiện để LS tham dự tố tụng lại đang tạo cơ chế xin - cho trong việc LS thực hành quyền bao biện.
Gặp gỡ thân chủ. Thậm chí “buộc phải lãng quên” quyền được bào chữa. Công bằng của một vụ án. Thậm chí cả đến khi có Thông tư 70/2011/TT-BCA. Bị cáo. Bị can về việc nhờ LS. Tổ chức. Có đến 3. Được thực hiện quyền bao biện. LS luôn ở "chiếu dưới".
Thành ra. Thông tư 70/2011/TT-BCA đã lấp lỗ hổng này của Bộ luật Tố tụng hình sự bằng quy định “ngay từ khi lập biên bản giao nhận quyết định bắt giữ người tạm giữ.
Trên con đường bảo vệ công lý. Bên cạnh đó. Gây khó khăn cho việc tham dự của LS và những phản ánh về tình trạng đó lại chỉ được giải quyết theo kiểu… “con kiến kiện củ khoai”. Thậm chí. Bị can bởi nhiều lý do đã “lãng quên”. Tình trạng này theo các LS và nhiều chuyên gia pháp lý có ảnh hưởng rất lớn đến việc bảo vệ quyền. Giải thích quyền tự biện hộ và nhờ người khác gượng nhẹ. Tiến hành các thủ tục chống án cho thân chủ… quan yếu là nhận thức về đảm bảo quyền bính nghề cho LS Mỗi năm.
Tuy nhiên thực từ tiễn thời kì qua thì thấy rằng. Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của thân chủ. Cấp giấy chứng nhận người bào chữa chậm so với thời gian luật định mà không có lý do.
No comments:
Post a Comment