Wednesday, July 17, 2013

15 năm Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về Văn hóa: Hành trang văn hóa phát triển trong thời kỳ mới

 Văn hóa phát triển không chỉ là thuật ngữ thịnh hành đối với những người nghiên cứu, mà còn là sự nhận thức chung của nhân loại nửa sau thế kỷ XX về vai trò của văn hóa trong phát triển cộng đồng, nhà nước dân tộc và thế giới. Văn hóa chẳng thể nằm ngoài sự phát triển kinh tế - tầng lớp mà nó là bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Hơn thế, văn hóa còn là " động lực xúc tiến phát triển kinh tế - tầng lớp”. Văn hóa chính trị, văn hóa đối ngoại càng ngày càng có vai trò quan yếu đối với hòa bình, cộng tác hữu hảo giữa các nhà nước, các khu vực và cả thế giới vì sự phát triển vững bền và thịnh vượng chung. 


Chuẩn bị vào hội Tịch điền (Đọi Sơn)

Ảnh:Hồng Vĩnh


quyết nghị Trung ương 5 khóa VIII ra đời trong điều kiện sự nghiệp đổi mới đang mở ra thời đoạn phát triển có tính bước ngoặt trong lịch sử dựng nước. Sự hội nhập càng ngày càng sâu rộng là cánh cửa để chúng ta tiếp cận với những trào lưu mới tiến bộ của thế giới. Một trong những trào lưu ấy chính là sự khởi động thập kỷ phát triển văn hóa của UNESCO được đề xướng vào những năm 80 của thế kỷ XX, nhằm đề cao vai trò của văn hóa trong phát triển. Chính thập kỷ đó là thập kỷ Việt Nam đang chuẩn bị và bắt đầu thời kỳ đổi mới. hấp thu tư tưởng tiến bộ của nhân loại, dựa trên nền móng thực tại đời sống tầng lớp Việt Nam và đề nghị của sự nghiệp đổi mới, quyết nghị Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa đã ra đời và thực thụ đi vào đời sống tầng lớp suốt những năm đổi mới sơn hà.


Đánh giá khách quan, toàn diện những thành tựu đạt được và những hạn chế yếu kém về văn hóa sau 15 năm khai triển quyết nghị Trung ương 5 khóa VIII là việc làm cấp thiết và công phu của các cấp ủy Đảng, các cơ quan văn hóa từ Trung ương đến địa phương. Điều quan yếu nhất là phải quán triệt ý thức khách quan, nhìn thẳng vào sự thực, không tô hồng nhưng cũng không phủ nhận cảm tính xuất hành từ những bức xúc, bất cập của nhiều hiện tượng tầng lớp đang hàng ngày diễn ra. Nếu chỉ cứ vào những bất cập trong quản lý di sản văn hóa; những suy thoái về đạo đức, lối sống trong cộng đồng có cả cán bộ và đảng viên; sự nhạt phai truyền thống "tình làng, nghĩa xóm” ở mặt nào đó; sự hoành hành tuy chỉ tạm bợ của cái ác …để cầu mong văn hóa đang đi xuống cũng là nhận định phiến diện, thiếu khách quan. Nhưng nếu cầu mong văn hóa đang phát triển mạnh mẽ cứ vào những lễ hội hoành tráng thẳng thớm được tổ chức, việc thụ hưởng văn hóa bằng các chỉ số có tính hình thức qua việc được nghe đài, đọc báo, xem phim, hoặc phê duyệt số nhà văn hóa đã và đang xây dựng, số làng văn hóa, gia đình văn hóa được xác nhận năm sau nhiều hơn năm trước… thì cũng là cách đánh giá "cổ truyền” ít có giá trị thiết thực cho phát triển. có nhẽ phải coi xét khách quan từ những đích chiến lược của quyết nghị.


đầu tiên về con người với nhân cách là chủ thể sáng tạo văn hóa, song song cũng là sản phẩm của văn hóa. Con người Việt Nam sau đổi mới thực thụ đã phát triển khá toàn diện. Toàn diện trong nhận thức, tư duy, trong hành động, trong xử sự tầng lớp, xử sự với môi trường thiên nhiên, tầng lớp, xử sự với chính bản thân mình. trước nhất hãy nói về số đông, đó là những người dân cày Việt Nam hiện tại không còn lạc hậu như trước, văn hóa tổ chức đời sống cộng đồng, văn hóa cần lao sản xuất…đã tiến những bước dài. Cũng trên diện tích như vậy, thậm chí còn bị thu hẹp hơn, dân cày Việt Nam đã tạo ra lượng lương thực, thực phẩm gấp nhiều lần trước đây do có nhận thức cao hơn, có trình độ cao hơn và khẳng định mình mạnh mẽ hơn. Văn hóa ăn, mặc, ở, văn hóa thể chất, sức khỏe của dân cày cũng tiến bộ hơn trước nhiều. Về văn hóa cộng đồng, chính người dân cày là lực lượng quyết định việc gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống, là những người có công lớn nhất bảo vệ, trùng tu đình, chùa, đền, miếu, hội hè … nơi thôn quê.


Những di sản văn hóa như Quan họ, Hát Xoan, Ca Trù, Hội Gióng…không có những người dân cày với niềm kiêu hãnh về truyền thống, với sự nhận thức đúng đắn về giá trị văn hóa liệu những giá trị quý đó có được UNESCO xác nhận?. Người dân cày Việt Nam hiện tại tiến xa hơn xưa rất nhiều nhìn từ góc độ văn hóa. Hãy tạo môi trường mới xứng đáng với công lao và sự tiến bộ của dân cày, họ có thể làm những điều kỳ diệu hơn cả điều kỳ diệu mà thế giới nhấn về xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam. Về tuổi xanh Việt Nam bữa nay cũng có thể nói đã tiến xa hơn nhiều so với đời trước. Đó là những thanh thiếu niên được đào tạo căn bản, có trình độ học thức, có nhận thức sâu rộng về bản thân, cộng đồng và thế giới, tự tín và có khao khát khẳng định mình trong sự thích nghi với điều kiện tầng lớp phát triển. Một chỉ số kiên cố chẳng thể chối cãi đó là tuổi xanh hiện tại có trình độ ngoại ngữ vượt xa đời trước cả về số lượng và chất lượng. đời luống tuổi và những người cao tuổi là lực lượng cốt đã và đang thực hành công cuộc đổi mới sơn hà. Những người này cũng có trình độ cao hơn, nhận thức và ý chí cao trong việc đưa sơn hà thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Hãy so sánh kết quả bữa nay so với quá vãng của chúng ta để thấy sự vươn lên của chính mình. cầu mong một cách tĩnh tâm sẽ thấy con người Việt Nam sau đổi mới về căn bản vẫn là những con người văn hóa truyền thống, song song đã hấp thu nguyên tố đương đại, văn minh, hội nhập sâu rộng hơn với cộng đồng quốc tế.


Tuy nhiên, chẳng thể không cảnh báo về sự suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cộng đồng người Việt Nam, đặc biệt là những cán bộ, đảng viên làm cho bức tranh đời sống tầng lớp có nhiều vết ố phản cảm và hiểm. Thói hám tiền, ích kỷ, bè phái, vọng ngoại, hèn đớn, ác độc …có chiều hướng truyền hình an viên có tốt không miêu tả càng ngày càng trắng trợn và phổ quát. Chém giết lẫn nhau giữa vợ chồng, cha con, nhân tình, người nhà, người làng…diễn ra khắp nơi miêu tả văn hóa đạo đức suy đồi, tính thiện suy vi, tính ác trội. Văn hóa xử sự với môi trường tự nhiên cũng đáng báo động. Môi trường tự nhiên cho phát triển vững bền, môi trường tự nhiên cho sức khỏe cộng đồng thật sự đáng lo ngại. tuổi xanh là thành viên hăng hái cho văn hóa môi trường, nhưng cũng còn nhiều người không chịu học hành, cần lao, chỉ học đòi, phá rối, nghiện hút, mãi dâm, dẫn đến cướp của, giết người tàn bạo…là tiếng chuông cảnh báo về nguyên do giảm chỉ số phát triển con người và tầng lớp Việt Nam nói chung, cũng như đời sống an bình của từng cộng đồng nói riêng.


Nói tới văn hóa chẳng thể không nói tới di sản văn hóa, kết tinh vật chất và ý thức của dân tộc suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Về việc này phải thấy sau khi có quyết nghị nhận thức chung của Đảng, quốc gia và cả cộng đồng có những chuyển biến rất rõ nét. Nếu ngày trước những di sản văn hóa vật thể như đình, chùa, đền, miếu…rất ít được quan hoài, thậm chí có nơi còn tàn phá, thì hiện tại hầu khắp các địa phương trong toàn quốc đã có chương trình kiểm kê, đánh giá, xếp hạng và từng bước chống xuống cấp, bảo vệ và phát huy có hiệu quả. Điều đó khẳng định sự chuyển biến nhận thức về di sản văn hóa vật thể sâu rộng trong cộng đồng. Về di sản văn hóa phi vật thể thì sự chuyển biến về nhận thức còn sâu sắc hơn. Nếu trước đây nhiều giá trị di sản văn hóa phi vật thể chẳng những không được cầu mong đúng đắn mà còn bị miệt thị, khinh. Ca Trù, Hát Xẩm không phải khi nào cũng được tôn trọng! Nhiều di sản tuy không bị miệt thị nhưng cũng chìm trong lãng quên vì nhiều lý do. Đến như bia trong Văn Miếu cũng bị bỏ quên, thất lạc; Hát Xoan, Quan Họ, hội Gióng, trường ca các dân tộc Tây Nguyên, rồi cồng chiêng, nhã nhạc…có mấy ai quan hoài?!


hiện tại các bộ sưu tập được biên chép, in ấn, xuất bản thành sách, ghi băng, làm đĩa hình, đĩa tiếng…rồi nghiên cứu đệ UNESCO xác nhận nhiều di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam nức tiếng thế giới. Công bằng mà nói những việc làm được về di sản văn hóa vật thể cũng như phi vật thể là rất đáng ghi nhận trong 15 năm qua. Tuy nhiên, trong quá trình thực hành một việc đã bị lãng quên nhiều năm không tránh khỏi những bất cập đáng tiếc như chuyện biến Thành nhà Mạc, Ô Quan Chưởng thành di sản "một năm tuổi”, rồi phá dỡ chùa Trăm Gian không quý trọng Luật Di sản…rồi các di sản ngày một xuống cấp không kịp trùng tu, hoặc các di sản được xác nhận chưa phát huy được trong đời sống kinh tế - từng lớp…Ngay cả những tiếng kêu cứu trên báo chí về di sản cũng phản chiếu rõ nét nhận thức về việc bảo vệ di sản đã được thấm sâu vào cộng đồng như thế nào. Đòi hỏi phải làm tốt hơn nữa việc giữ giàng và phát huy di sản văn hóa dân tộc là đề nghị thực tiễn khách quan, nhưng nó không đồng nghĩa với việc phủ nhận thành tựu to lớn về lĩnh vực này trong những năm qua.


Về hoạt động văn hóa và đời sống văn hóa cộng đồng cũng có những thành tựu rất đáng ghi nhận. Về số lượng các hoạt động văn hóa, đặc biệt là lễ hội tăng đáng kể, góp phần làm phong phú thêm đời sống cộng đồng, nhất là ở nông thôn. Tuy nhiên, về chất lượng và ý nghĩa tổ chức các lễ hội và các hoạt động văn hóa khác cũng còn nhiều hạn chế. Các hoạt động thẳng tính như chăng đèn, kết hoa, treo cờ phướn, băng rôn, khẩu hiệu có phần ranh con hơn, nghệ thuật cao hơn và cũng có nhiều hình thức đẹp phố, vui làng hơn. Tuy nhiên, việc lặp đi, lặp lại nhiều lần trong năm không nâng cao đời sống thẩm mĩ cộng đồng, nhiều khi còn gây phản cảm về sự phao phí. Nhiều nơi ngay tại Thủ đô "chúc hạ năm mới” đến giữa năm vẫn còn tươi màu trên bảng hiệu. Hoạt động dịch vụ văn hóa phát triển khá mạnh đáp ứng nhu cầu của một bộ phận trong cộng đồng. Tuy nhiên, do quản lý chưa đáp ứng sự phát triển nên nhiều hệ lụy tồn tại chưa thể giải quyết gây bức xúc từng lớp như dịch vụ Karaoke, vũ trường. Vấn đề trình diễn cũng còn nhiều việc phải làm sao cho đáp ứng nhu cầu văn hóa và định hướng thẩm mỹ đúng đắn cho giới trẻ. Vấn đề công bằng trong hưởng thụ văn hóa cũng còn không ít việc phải làm.


Về hoạt động văn hóa có điểm nhấn rất đáng ghi nhận là hoạt động giao lưu, truyền bá, giới thiệu văn hóa Việt Nam với cộng đồng quốc tế và văn hóa thế giới với Việt Nam. Có thể nói nhờ các hoạt động này thế giới hiểu hơn, yêu mến và trân trọng Việt Nam hơn, và Việt Nam cũng hiểu và gần gụi với cộng đồng quốc tế hơn. Tuy nhiên, về phim ảnh một số nước chiếm lĩnh màn ảnh nhỏ và rạp chiếu phim cả về số lượng và tầm ảnh hưởng đến gu, cũng như lề thói xem phim của người Việt Nam đã đến mức báo động. Những nhân tố văn hóa hăng hái và thụ động duyệt hệ thống mạng cần được quan hoài, điều chỉnh sao cho thích hợp với tình hình mới.

Nói tóm lại, sau 15 năm thực hành quyết nghị Trung ương 5 khóa VIII - những thành quả đạt được trong lĩnh vực văn hóa là rất đáng ghi nhận, nhưng những hạn chế, tồn tại và những thụ động nảy sinh trong điều kiện mới cũng cần nhận mặt kỹ lưỡng để biết rõ hành trang văn hóa phát triển trong điều kiện mới của dân tộc. quyết nghị nào cũng chỉ thích hợp trong một tuổi phát triển cố định. quyết nghị Trung ương 5 khóa VIII không phải là ngoại lệ sau khi đã hoàn tất sứ mạng của mình.


hiện tại người ta quan niệm văn hóa là hình ảnh, là khuân mặt của mỗi nhà nước. Trong thế giới hội nhập, chúng ta cần có nhận thức mới, tư duy mới và hành động đúng đắn nhằm giữ giàng văn hóa Việt Nam truyền thống, tiếp thụ tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa Việt Nam dân tộc, khoa học và đại chúng, góp phần làm giàu kho tàng văn hóa nhân loại, song song xây dựng hình ảnh Việt Nam phát triển, thân thiện và đáng tin cẩn trong cộng đồng quốc tế.

TS. Nguyễn Viết Chức

No comments:

Post a Comment